- Khả năng xử lý dư lượng kháng sinh trong bùn của cây đước
Biến đổi khí hậu (BĐKH) là vấn đề của toàn cầu, là thách thức nghiêm trọng đối với toàn nhân loại hiện nay. Do vậy, việc xã hội loài người thích ứng với biến đổi khí hậu phải được đặt trong mối quan hệ của toàn nhân loại. Tuy nhiên, thích ứng với biến đổi khí hậu không chỉ là thách thức mà còn tạo cơ hội thúc đẩy chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế theo hướng phát triển bền vững, đặc biệt là trong sản xuất nông nghiệp. Để phát triển kinh tế bền vững phải tiến hành đồng thời thích ứng và giảm nhẹ ảnh hưởng của BĐKH, trong đó thích ứng với biến đổi khí hậu, chủ động phòng, tránh thiên tai là nhiệm vụ trọng tâm. Trong Ủy ban Liên chính phủ về BĐKH năm 2013 cho rằng hiện nay các hoạt động con ngƣời đóng góp vào 95 % nguyên nhân gây ra BĐKH, làm nhiệt độ bề mặt trái đất tăng lên nhanh chóng trong hơn nửa thế kỉ qua, chẳng hạn nhƣ việc đốt các nhiên liệu hóa thạch (than đá, dầu mỏ, v.v.) phục vụ các hoạt động công nghiệp, giao thông vận tải,…và thay đổi mục đích sử dụng đất bao gồm thay đổi trong nông nghiệp và nạn phá rừng; ngoài ra còn một số hoạt động khác như đốt sinh khối, sản phẩm sau thu hoạch,…
Cũng theo thông báo thứ 2 của Việt Nam với Công ƣớc khung Liên Hiệp Quốc về biến đổi khí hậu (UNFCCC) thì kết quả kiểm kê Khí Nhà kính (KNK) năm 2000 của Việt Nam là khoảng 143 triệu tấn khí CO2/năm. Trong đó nông nghiệp chiếm khoảng 45 %, năng lựợng chiếm khoảng 35 % tổng phát thải KNK của Việt Nam. Điều đó cũng cho thấy Việt Nam là một đất nước có tỉ trọng sản xuất nông nghiệp cao nên khối lượng phát thải KNK chiếm đến 45 %. Sự gia tăng nhiệt độ khí quyển làm cho khí hậu các vùng ở nước ta nóng lên là kịch bản chủ yếu của BĐKH, kết hợp với sự suy giảm lượng mưa làm cho nhiều khu vực khô hạn hơn. Năm 2010, nhiệt độ tăng khoảng 0,3 - 0,50C; và theo các nghiên cứu mới đây nhiệt độ sẽ tăng từ 1,1 - 1,80C vào năm 2100. Những khu vực ở nước ta có nhiệt độ tăng cao nhất là vùng núi Tây Bắc, Đông Bắc và Bắc Trung Bộ, nhiệt độ trung bình năm tăng khoảng 0,1 - 0,3 0C/thập niên. Tây Nguyên là tên gọi chung của khu vực bao trùm toàn bộ hệ thống cao nguyên rộng lớn nằm ở phía Tây của miền Nam Trung Bộ, trong phạm vi kinh độ 107,41 – 108,39, vĩ độ 11,32-11,58 và trên độ cao từ 100 mét đến 800 mét so với mực nƣớc biển. Ranh giới tự nhiên gần trùng với năm tỉnh Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông, Lâm Đồng. Khí hậu Tây Nguyên nổi lên một số yếu tố riêng biệt, quyết định bởi độ cao và tác dụng chắn gió của dãy Trƣờng
Sơn, hình thành khí hậu đặt trung gọi là khí hậu nhiệt đới gió mùa cao nguyên; tổng lượng bức xạ mặt trời ở Tây Nguyên khá dồi dào, trung bình đạt 235,240 kcal/cm2/năm khi trời quang mây. Do ảnh hưởng của mây và hơi nước bức xạ mặt trời khi tới mặt đất bị suy giảm, còn khoảng 120-140 kcal/cm2/năm. Tuy nhiên độ chênh lệnh tổng lượng bức xạ của các tháng lớn nhất và tháng nhỏ nhất không nhiều, chỉ khoảng 4-5 kcal/cm2, đây cũng là yếu tố thuận lợi cho phát triển nông nghiệp và áp dụng các giải pháp thích ứng với biến đổi khí hậu hiện nay. Chế độ nhiệt của Tây Nguyên có quy luật nhiệt độ không khí theo độ cao địa hình: ở những vùng thấp dưới 500 m (Srepok, Krông Pắk) nhiệt độ trung bình 24 oC thì ở những vùng cao 500 – 800 mét nhiệt độ khoảng 21-23 oC, còn ở những vùng cao 800 -1.100 mét (Pleiku) nhiệt độ đã hạ xuống 19 -21 oC và ở những vùng cao trên 1.500 mét (Đà Lạt….) nhiệt độ còn chỉ dưới 19 oC. Lượng mưa ở Tây Nguyên rất không đồng đều theo không gian cũng như thời gian và phân thành hai mùa rõ rệt: mùa mưa kéo dài từ tháng 5 đến tháng 10 ( trong thời kì này lượng mưa chiếm khoảng 75 % tổng lượng mưa cả năm) và phân bố không điều giữa các vùng : Ở Bắc Tây Nguyên lượng mưa hơn 2.400 mm (Kon Tum), khoảng 2.000 – 2.400 mm;các cao nguyên Gia Lai, Kon Tom, Đắk Lắk ở những địa hình thấp có lượng mƣa 1.600 – 1.800 mm.
Cũng không nằm ngoài sự tác động của BĐKH toàn cầu, các nghiên cứu gần đây cho thấy, so với thập niên 70 - 80 của thế kỉ XX, nhiệt độ không khí trung bình thập niên 90 đến gần đây cao hơn rõ rệt, nhất là vào các tháng mùa mưa (tháng 5 – 10) nhiệt độ trung bình năm phổ biến cao hơn từ 0,5 oC đến 0,8 oC; riêng Kon Tum, cao hơn 1 0C. (Trong khi đó nhiệt độ trung bình năm ở Việt Nam tăng khoảng 0,5 oC đến 0,7 oC); trong các tháng mùa hè, nhiệt độ trung bình phổ biến cao hơn 0,23 oC đến 0,7 oC. Điều này khẳng định sự tăng của nhiệt độ xảy ra ở tất cả các vùng ở Tây Nguyên và nhiệt độ mùa Đông tăng nhanh hơn mùa Hè rõ rệt. Nhiệt độ tăng cũng là nguyên nhân làm tài nguyên nước suy giảm: Tài nguyên nước mặt (chỉ xét đến lượng nước hiện hữu trên các sông suối điển hình như Sê San, Sê rê pốk, sông Ba và Đồng Nai) đã kiệt dần từ lƣu lƣợng 173.863,54 lít/giây của những năm 2004-2005 xuống còn trên dƣới 127.000 lít/giây hiện nay. Sự phân bổ không đồng đều của lƣợng mƣa theo không gian và thời gian, nơi có lƣợng mƣa hằng năm lớn hơn 3000 mm nhƣ Kon Plong (Kon Tum), thƣợng nguồn sông Hinh (Đắk Lắk) và nơi có lƣợng mƣa chỉ trên dƣới 1.500 mm nhƣ Krông Buk, Ea Súp… thì sự chênh lệch lƣu lƣợng nƣớc ở đỉnh lũ lớn nhất với lƣu lƣợng kiệt nhỏ nhất là rất cao. Mặt khác, những năm gần đây rừng Tây Nguyên bị chặt phá nghiêm trọng, cộng với những yếu tố bất lợi nhƣ mùa khô kéo dài, sự biến đổi thất thƣờng của thời tiết làm cho lũ lụt, hạn hán trở nên trầm trọng hơn. Ngoài ra, Tây Nguyên là nơi thƣợng nguồn của ba hệ thống sông lớn (Sê rê pốk - Sê San nằm ở phía Tây Bắc và sông Đồng Nai ở phía Nam), ngƣời dân tận lực khai thác nƣớc ngầm ngay tại đầu nguồn để tƣới tiêu (cà phê, hoa màu…) khiến mực nƣớc dƣới lòng đất không ngừng bị hạ thấp, dẫn đến quá trình sản xuất tại các vùng hạ lƣu gặp khó khăn. Từ năm 1997, tổng trữ lƣợng nƣớc ngầm (ở trạng thái tĩnh, không có sự tác động bất thƣờng của môi trƣờng tự nhiên) tại Đắk Lắk là 120,9 x 109 m3 đến nay chỉ còn khoảng 30 - 35 %. Sự giàu nghèo tài nguyên nƣớc ở đây phụ thuộc vào lƣợng mƣa, vào thành phần vật chất của lớp phủ bề mặt đất và mức độ lƣu giữ nƣớc của thành tạo địa chất từng vùng. Nếu để suy giảm một hoặc nhiều yếu tố trên sẽ khiến tài nguyên nƣớc nghèo đi. Ngoài lƣợng mƣa hàng năm có xu hƣớng ít đi, do mùa khô kéo dài, thì tình trạng mất rừng và sự thay đổi nhanh chóng của lớp phủ bề mặt trên thành tạo địa chất, mà cụ thể là trên đất (vì mục đích quy họach trồng hoa màu, cây công nghiệp và nhiều dự án nông- lâm nghiệp khác) đã làm cho mực nƣớc ngầm sụt giảm. Mới đây, khảo sát của Đoàn Địa chất 704 cho thấy một số vùng nhƣ ở huyện Krông Pắk, Lắk, Krông Buk và vùng phía Đông Buôn Ma Thuột,… mực nƣớc ngầm tiềm năng không còn nhiều nhƣ 5 năm trƣớc. Ví dụ vùng Krông Pắk, Lắk…năm 2004 có thể khai thác tối đa 0,4 - 0,6 triệu m3/ngày, thì nay còn chƣa đầy 0,4 triệu m3/ngày. Ngoài yếu tố nhiệt độ có xu hƣớng tăng, nguồn nƣớc giảm, dƣờng nhƣ diễn biến thời tiết ở Tây Nguyên đang ngày càng có xu thế cực đoan hơn. Thiên tai xảy ra thƣờng xuyên; lũ lụt, lũ quét vào mùa mƣa; hạn hán, nắng nóng vào mùa khô; các hiện tƣợng thời tiết nguy hiểm khác nhƣ dông, lốc xoáy, mƣa đá xuất hiện ngày càng nhiều và bất thƣờng hơn. Sự gia tăng biên độ nhiệt, độ ẩm ngày đêm, khiến một số nơi đang mất dần tính ôn hòa vốn có của nó. Trong một vài tháng của mùa khô, hiện tƣợng nhiệt độ tăng cao, gây nắng nóng hơn bình thƣờng đã xuất hiện ở một vài nơi. Sự phân bố lƣợng mƣa theo không gian và thời gian cũng có những dấu hiệu thay đổi. Trong đó, đáng lƣu ý nhất là hiện tƣợng mƣa lớn gia tăng khiến lũ quét xuất hiện nhiều hơn. BĐKH cũng đƣợc xem là tác nhân chính làm cho dòng chảy sông suối ở Tây Nguyên mất đi sự hiền hòa vốn có, thể hiện nhiều qua mức độ cạn kiệt nghiêm trọng trong mùa khô, và đỉnh lũ ngày càng nhọn hơn, cao hơn, cƣờng suất lũ lên lớn hơn trong mùa lũ.
Do vậy, để giảm nhẹ sự tác động của BĐKH, thiên tai gây ra. Tây Nguyên cần tiến hành đồng thời thích ứng và giảm nhẹ, trong đó thích ứng với BĐKH, chủ động phòng, tránh thiên tai là chủ yếu. Cụ thể cần thực hiện một số giải pháp sau: Một là, quản lí bảo vệ nguồn nƣớc: Nƣớc là tài nguyên không thể thiếu trong cuộc sống của con ngƣời, sinh vật, có mối quan hệ hữu cơ với các thành phần kinh tế, đặc biệt không thể thiếu trong sản xuất nông nghiệp. Do vậy, để có cơ sở thích ứng với BĐKH cần phải nghiên cứu, đánh giá sự tác động của BĐKH đến tài nguyên nƣớc phục vụ cho sản xuất và sinh hoạt; đánh giá công năng và tình trạng hoạt động của công trình thủy lợi lớn và nhỏ, trên cơ sở đó đƣa ra những giải pháp nâng cấp, bổ sung các công trình này để phù hợp với hoàn cảnh của BĐKH; xây dựng các hồ chứa đa mục đích để sử dụng một lƣợng nƣớc nhất định vào nhiều đối tƣợng khác nhau. Tây Nguyên cũng là nơi thƣợng nguồn của ba con sông lớn nên cần có các chiến lƣợc bảo vệ nguồn nƣớc ngay ở thƣợng nguồn; có kế hoạch cân đối nguồn cung và nhu cầu nƣớc theo từng vùng canh tác; trong sinh hoạt cần phải định mức sử dụng nƣớc và giá nƣớc phù hợp với tình hình thực tế của địa phƣơng; nghiên cứu đƣa ra biện pháp kĩ thuật tƣới tiêu cho nông nghiệp nhằm giảm thất thoát nƣớc cũng nhƣ tiết kiệm nƣớc. Hai là, điều chỉnh quy hoạch đất, chuyển đổi cơ cấu cây trồng thời vụ phù hợp với hoàn cảnh ĐKH: Trong sản xuất nông nghiệp, chủ yếu là xây dựng cơ cấu cây trồng phù hợp, xây dựng các biện pháp kĩ thuật, tăng cƣờng hệ thống tƣới tiêu và các biện pháp chống chịu với ngoại cảnh khắc nghiệt. Sử dụng các giống kháng, chịu hạn (cà phê, lúa, ngô...), các loại giống ra hoa nhiều lần, bộ giống cây lƣơng thực, thực phẩm ngắn ngày; bố trí thời vụ thích hợp để tránh hạn, tránh lũ. Tăng cƣờng đa dạng sinh học trên vƣờn cà phê nhƣ trồng cây che bóng, cây ăn quả, cây đai rừng sẽ là giải pháp thích ứng với BĐKH hiệu quả do hệ thống cây trồng này có tác dụng hỗ trợ lẫn nhau trong việc điều hòa vi khí hậu, hạn chế bốc thóat hơi nƣớc trên bề mặt đất và lá, cung cấp hữu cơ, cải tạo đất, hạn chế xói mòn và rửa trôi đất giúp sản xuất cà phê bền vững hơn. Tƣới nƣớc tiết kiệm hợp lí cho cây trồng cũng là giải pháp kĩ thuật nhằm thích ứng với sự BĐKH ở Tây Nguyên. Chuyển một số diện tích đất trồng điều ở các vùng có điều kiện khí hậu bất thuận, sản xuất không hiệu quả sang trồng các loại cây khác có hiệu quả hơn nhƣ sắn, khoai lang, khoai môn là những loại cây có khả năng thích ứng cao với sự BĐKH và từng bƣớc thay đổi khẩu phần lƣơng thực của chúng ta từ gạo là chủ yếu sang một phần các loại củ để giảm áp lực về an ninh lƣơng thực trong tƣơng lai.
Ba là, tiết kiệm n ng lƣợng, khai thác nguồn n ng lƣợng mới: Ở Tây Nguyên, thủy năng đƣợc ƣu tiên phát triển mạnh mẽ trong thời gian qua nhƣng theo diễn biến của BĐKH hiện nay thì trong tƣơng lai có thể hết khả năng xây dựng thêm các nhà máy thủy điện mới, không ít công trình thủy điện xây lên đã ảnh hƣởng xấu đến các vùng đất canh tác nông nghiệp ở hạ lƣu (Mùa khô thì ngăn dòng chảy, mùa mƣa thì xả nƣớc gây ngập úng, xói mòn đất trồng hoa màu). Trong khi, nhu cầu năng lƣợng để phục vụ cho phát triển kinh tế ngày càng cao, nếu ta không phát triển năng lƣợng khác ngoài thủy năng thì năng lƣợng sẽ thiếu trong tƣơng lai. Do vậy, phát triển các dạng năng lƣợng khác là phƣơng án tối ƣu để thích ứng với kịch bản của BĐKH. Một trong những giải pháp là khai thác các nguồn năng lƣợng tái tạo. Tây Nguyên là vùng có tốc độ gió khả quan nhất Việt Nam; tốc độ gió trung bình trên 2,5m/s khá rộng, nhiều nơi tốc độ gió trên 3m/s, trên các núi cao có thể vƣợt 4m/s – một ƣu thế để phát triển năng lƣợng gió. Năng lƣợng từ mặt trời: trung bình năm ở nƣớc ta có khoảng 1400 - 3000 giờ nắng, trong khi đó khu vực Tây Nguyên trung bình năm khoảng 2000 –2600 giờ nắng với 150 –175 kcal/cm2/năm, đây cũng là nguồn năng lƣợng dồi dào, thân thiện và bền vững. Khai thác tài nguyên mây và làm mƣa nhân tạo cũng có khả thi vào những tháng mùa khô kéo dài phục cho tƣới tiêu. Với những thế mạnh trên vùng Tây Nguyên có thể bổ sung hoặc thay thế thủy năng bằng các dạng năng lƣợng thân thiện với môi trƣờng. Bên cạnh đó, tiết kiệm năng lƣợng cũng là một giải pháp để giảm sự tác động của BĐKH, thiên tai gây ra: Ở Tây Nguyên, năng lƣợng (điện và xăng dầu) phục vụ cho tƣới tiêu vào mùa khô rất lớn, do vậy, cần đƣa ra các biện pháp kĩ thuật giảm lƣợng nƣớc tƣới trên một diện tích cây trồng cũng nhƣ giảm lƣợng thất thoát nƣớc tƣới nhƣ thay đổi cách tƣới truyền thống bằng phƣơng pháp tƣới nhỏ giọt…
Bốn là bảo vệ và phát triển rừng: Rừng chính là “máy điều hòa khí hậu” khổng lồ. Các nhà khoa học cho biết: Tạm tính trên 1.000.000 ha nếu chỉ 50% diện tích có rừng cây thân gỗ thì mỗi năm rừng ở Trƣờng Sơn giữ đƣợc 22-25 triệu tấn CO2, bởi vậy rừng góp phần đáng kể vào giảm sự nóng lên toàn cầu. Vì vậy, tăng cƣờng trồng rừng, phủ xanh đất trống đồi núi trọc, bảo vệ và phát triển rừng, bảo vệ rừng đầu nguồn, rừng tự nhiên, bảo tồn đa dạng sinh học ở rừng, đặc biệt là đảm bảo an ninh môi trƣờng sẽ là một chiến lƣợc thích ứng lợi hại của Việt Nam nói chung và Tây Nguyên nói riêng trƣớc ảnh hƣởng BĐKH. Bên cạnh đó cần nâng cao hiệu quả công tác tổ chức phòng chống cháy rừng; nâng cao hiệu suất sử dụng gỗ và cần hạn chế sử dụng nguyên liệu gỗ (điều tra hiện trạng sử dụng gỗ và hiệu suất sử dụng gỗ; nghiên cứu đánh giá cơ chế tài chính khuyến khích sản - xuất vật liệu thay thế gỗ); bảo vệ giống cây trồng quý hiếm, lựa chọn và nhân giống cây trồng thích hợp với vùng Tây Nguyên N m là, chủ động phòng tránh các thiên tai do thiên nhiên gây ra: Ảnh hƣởng của BĐKH gây ra lũ lụt, lũ quét, hạn hán, nắng nóng, dông, lốc xoáy, mƣa đá xuất hiện ngày càng nhiều và bất thƣờng hơn trƣớc. Do vậy phải tăng cƣờng các biện pháp tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức của cộng đồng về phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai; đƣa những kiến thức cơ bản về phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai vào chƣơng trình giáo dục trong nhà trƣờng, nhằm giáo dục cho học sinh hiểu và biết cách đối phó với các tình huống thiên tai. Sáu là, nâng cao nhận thức cộng đồng về ĐKH và thích ứng với ĐKH: Tăng cƣờng công tác tuyên truyền và nâng cao nhận thức của cán bộ và ngƣời dân về BĐKH và tác hại của nó đối với các hoạt động kinh tế xã hội; về cách thức và phƣơng án giảm nhẹ thiên tai để từ đó thay đổi thái độ, hành vi ứng xử trong hoạt động sống của mình (lao động sản xuất, học tập, sinh hoạt, công tác, sử dụng tài nguyên…).
Biến đổi khí hậu đã có những tác động rõ rệt đến tài nguyên nƣớc trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng. Đặc biệt là ở các tỉnh Tây Nguyên, vùng sản xuất cây công nghiệp lớn của đất nƣớc, xu thế tăng về nhiệt độ, lƣợng nƣớc tƣới tiêu cho nông nghiệp giảm mạnh, thời tiết cực đoan, thiên tai xảy ra cục bộ với cƣờng xuất mạnh hơn. Hiện nay Việt Nam đã có chƣơng trình Mục tiêu quốc gia về biến đổi khí hậu và các tỉnh, thành đã có kế hoạch hành động, đƣa ra giải pháp thích ứng phù hợp với điều kiện địa phƣơng. Trên cơ sở các phƣơng pháp dân gian cải tiến và giải pháp thích ứng, nghiên cứu đã đề xuất các giải pháp chính, phù hợp, góp phần bảo vệ và phòng chống thời tiết cực đoan, phòng hạn, phòng chống suy thoái tài nguyên nƣớc cho khu vực và điều chỉnh cây trồng phù hợp với tình hình hiện nay