- phân lập nitrat trong xử lý nước thải p2
Mật độ vi khuẩn ban đầu tối ƣu giúp đẩy nhanh tốc độ xử lí nitrate. Để đánh giá hiệu quả loại bỏ nitrate, ngoài nồng độ nitrate còn lại, phải xác định sự hình thành của nitrite và amoni. Kết quả thể hiện ở Hình 2. Dựa vào Hình 2A cho thấy rằng mật độ vi khuẩn ban đầu có ảnh hƣởng rất lớn đến khả năng loại bỏ nitrate của chủng vi khuẩn HLX5 khi tiến hành khảo sát theo thời gian. Tại thời điểm 6 giờ, 12 giờ và 24 giờ, hàm lƣợng nitrate trong mẫu bắt đầu giảm xuống nhanh ở mật độ 107, 108 và 109 cfu/ml trong khi ở mật độ vi khuẩn 105 và 106 cfu/ml giảm xuống chậm hơn. Đến thời điểm 48 giờ, hàm lƣợng nitrate ở nghiệm thức bổ sung mật độ 106 cfu/ml đột ngột giảm rất mạnh trong khi hàm lƣợng nitrate ở các nghiệm thức còn lại chỉ giảm nhẹ. Điều này chứng tỏ rằng, sau thời điểm 24 giờ, ở mật độ vi khuẩn 106 cfu/ml vi khuẩn HLX5 đã thích nghi rất nhanh nên tốc độ loại bỏ nitrate xảy ra rất nhanh.
Đối với hàm lƣợng nitrite tạo thành (hình 2B), có sự biến động theo thời gian khảo sát, bắt đầu tăng lên từ thời điểm 6 giờ và tăng cao tại thời điểm 24 giờ. Điều này cũng tƣơng ứng với hiệu quả loại bỏ nitrate của các nghiệm thức tại thời điểm 24 giờ. Tuy nhiên, đến thời điểm 48 giờ, lƣợng nitrite giảm xuống rất thấp. Điều này chứng tỏ rằng vi khuẩn HLX5 sau khi đã sử dụng hết nitrate trong môi trƣờng thì chúng chuyển sang sử dụng nitrite để lấy nguồn nitrogen xây dựng tế bào. Và tại thời điểm này, ở mật độ 106 cfu/ml hàm lƣợng nitrite hình thành ít nhất. Đối với khả năng hình thành amoni của các nghiệm thức, hàm lƣợng amoni hình thành cao nhất ở mật độ 106 cfu/ml là 2,5 mg/l, so với QCVN 40:2011/BVMT, giới hạn của amoni hiện diện trong nƣớc thải loại A là 5 mg/l nên hàm lƣợng amoni vẫn đạt yêu cầu đối với nƣớc thải.
Sự phát triển của vi khuẩn HLX5 trong môi trƣờng DM ở các mật độ khảo sát cho thấy tại các thời điểm 6 giờ, 12 giờ và 24 giờ có sự khác nhau rõ rệt về mật độ vi khuẩn ở các nghiệm thức. Điều này chứng tỏ rằng mật độ vi khuẩn ban đầu càng cao thì mức độ thích nghi càng nhanh và sự phát triển càng nhanh. Nhƣng đến thời điểm 48 và 72 giờ, gần nhƣ không có sự khác biệt rõ ràng về mật độ vi khuẩn giữa 5 nghiệm thức. Nhƣ vậy, kết thúc thí nghiệm khảo sát ảnh hƣởng của mật độ đến khả năng loại bỏ nitrate của HLX5 đã xác định đƣợc mật độ ảnh hƣởng khá lớn đến khả năng loại bỏ nitrate. Ở mật độ vi khuẩn càng cao thì quá trình loại bỏ nitrate diễn ra càng nhanh và đồng thời cũng sản sinh ra các sản phẩm phụ nhiều hơn nhƣ nitrite và amoni. Tuy nhiên, khi thời gian khảo sát càng dài thì nghiệm thức bổ sung vi khuẩn ban đầu thấp, cụ thể là 106 cfu/ml lại cho hiệu suất loại bỏ nitrate cao hơn đồng thời quá trình tăng sinh khối của HLX5 cũng diễn ra tƣơng đƣơng với các nghiệm thức còn lại. Do đó, khi xét về hiệu quả xử lí cũng nhƣ hiệu quả kinh tế, mật độ vi khuẩn HLX5 ban đầu là 106 cfu/ml cho hiệu quả xử lí tốt nhất và đƣợc sử dụng cho các thí nghiệm tiếp theo.
Việc xác định đƣợc nguồn carbon thích hợp đối với HLX5 có ý nghĩa quan trọng, quyết định đến hoạt tính loại bỏ nitrate của chúng. Kết quả khảo sát ảnh hƣởng của nguồn C đến quá trình loại bỏ nitrate đƣợc trình bày ở Hình 3.
Kết quả khảo sát ảnh hƣởng của nguồn C chỉ ra rằng vi khuẩn HLX5 có khả năng xử lí đƣợc nitrate khi bổ sung các nguồn carbon khác nhau (succinate, methanol và ethanol) nhƣng hiệu quả xử lí hoàn toàn khác nhau. Và kết quả này cho thấy nguồn carbon này đóng vai trò rất quan trọng trong quá trình xử lí nitrate của chủng HLX5. Trong thời điểm khảo sát, hàm lƣợng
nitrate ở môi trƣờng bổ sung succinate tiếp tục đƣợc xử lí rất tốt. Quá trình xử lí của các vi sinh vật trên môi trƣờng bổ sung succinate diễn ra ổn định hơn môi trƣờng bổ sung ethanol và methanol. Hàm lƣợng nitrite tạo thành có sự biến động theo thời gian khảo sát. Nghiệm thức bổ sung ethanol quá trình sinh nitrite cũng tƣơng ứng với quá trình xử lí nitrate tại 72 giờ. Riêng nghiệm thức bổ sung methanol hoàn toàn không tạo nitrite trong suốt quá trình xử lí. Ở thời điểm khảo sát 72 giờ lƣợng nitrite của nghiệm thức bổ sung succinate giảm mạnh do các vi sinh vật đã sử dụng hết nitrate nên chúng bắt đầu sử dụng nitrite nhƣ nguồn nitrogen để xây dựng tế bào. Nhƣ vậy, hàm lƣợng nitrite tạo thành ở các nghiệm thức sau 72 giờ không cao và không ảnh hƣởng lớn đến chất lƣợng của nƣớc đầu ra. Đối với khả năng hình thành amoni của các nghiệm thức, hàm lƣợng amoni tăng dần tại thời điểm 6 giờ ở nghiệm thức bổ sung methanol và lƣợng amoni của nghiệm thức này đạt cao nhất tại 12 giờ. Sau đó lƣợng amoni giảm tại 24 giờ và lại tăng tại 48 và 72 giờ. Nghiệm thức bổ sung succinate thì chỉ xuất hiện amoni tại 48 giờ và tiếp tục tăng tại 72 giờ. Riêng nghiệm thức bổ sung methanol thì không sinh amoni trong suốt quá trình khảo sát. Và lƣợng amoni hình thành trong suốt quá trình khảo sát cao nhất là 4,298mg/ml ở nghiệm thức bổ sung ethanol, so với QCVN 40:2011/BVMT, giới hạn của amoni hiện diện trong nƣớc thải loại A là 5 mg/l nên hàm lƣợng amoni vẫn đạt yêu cầu đối với nƣớc thải. Sự phát triển của vi khuẩn HLX5 cho thấy nguồn carbon bổ sung vào có ảnh hƣởng rất lớn đến sự tăng trƣởng của vi khuẩn trong thời gian khảo sát. Mật độ vi khuẩn ở nghiệm thức bổ sung succinate và ethanol tăng cao và liên tục trong suốt quá trình khảo sát, đến 48 giờ mật độ hầu nhƣ không tăng ở cả 2 nghiệm thức vì mật độ vi khuẩn nuôi cấy đã quá cao và tại thời điểm này nguồn thức ăn trong môi trƣờng đã giảm nhiều nên các vi khuẩn bắt đầu cạnh tranh nguồn thức ăn, môi trƣờng sống dẫn đến ức chế sự phát triển lẫn nhau. Riêng môi trƣờng DM bổ sung methanol ở 12 giờ đầu của quá trình khảo sát mật độ giảm mạnh, do nguồn carbon không phù hợp với sự phát triển của HLX5 nên gây chết vi khuẩn. Sau 12 giờ khảo sát các vi khuẩn đã thích nghi với môi trƣờng sống mới và bắt đầu tăng sinh khối nhanh chóng. Đến thời điểm khảo sát 24 và 48 giờ hầu nhƣ mật độ không tăng và đến 72 giờ mật độ vi khuẩn giảm mạnh. Kết quả thí nghiệm chứng tỏ rằng nguồn carbon có ảnh hƣởng rất lớn đến khả năng loại bỏ nitrate của vi khuẩn HLX5. Và trong 3 nguồn carbon khảo sát, môi trƣờng bổ sung succinate, HLX5 loại bỏ nitrate mạnh nhất đồng thời các sản phẩm phụ tạo ra không nhiều và không vƣợt quá quy định cho phép. Đồng thời, sự tăng trƣởng của HLX5 trong môi trƣờng bổ sung succinate cũng rất tốt. Do đó, succinate là nguồn C đƣợc sử dụng cho các thí nghiệm tiếp theo. 3.3.3. Ảnh hưởng của pH ban đầu đến quá trình xử lí nitrate Với các giá pH khảo sát, trong 6 giờ đầu, môi trƣờng có pH 7, 8 và 9 các vi khuẩn đang trong giai đoạn ổn định và quá trình xử lí nitrate vẫn chƣa diễn ra. Nhƣng môi trƣờng có pH 5 và 6 thì trong giai đoạn này vi khuẩn HLX5 đã xử lí hơn 50 % lƣợng nitrate ban đầu bổ sung vào môi trƣờng. Điều này có thể do chủng vi khuẩn HLX5 thuộc nhóm vi khuẩn ƣa acid nên thích nghi tốt hơn ở điều kiện pH 5 và 6 dẫn đến tốc độ xử lí nitrate diễn ra nhanh hơn các môi trƣờng ở các giá trị pH khác. Đến thời điểm khảo sát 12 giờ quá trình xử lí của HLX5 ở nghiệm thức có pH 5, 6 diễn ra chậm lại do vi khuẩn phát triển quá nhanh trong giai đoạn đầu, mật độ vi khuẩn tăng cao và đồng thời lƣợng nitrate trong môi trƣờng giảm đi nhanh chóng nên có sự ức chế trong môi trƣờng giữa các vi khuẩn làm ảnh hƣởng đến quá trình xử lí.